Ký ức, sinh học và cơn đau của những điều suýt chạm tới
Khao khát không bao giờ tuyên bố nó đang đến. Nó len vào máu dưới những hình dạng khác nhau: hoài niệm, tham vọng, cô đơn, đói khát. Đôi khi nó đội lốt tình yêu. Đôi khi là mất mát. Đôi khi nó mang khuôn mặt mà tôi đã cố quên, nhưng cơn đau lại trỗi dậy trước cả ký ức. Muốn — không phải lúc nào cũng kéo ta tiến về phía trước. Có khi nó gập ta lại, co người quanh những tương lai chưa từng đến.
Tôi tự hỏi liệu mình đã từng yêu người ta nhiều hơn khi ở xa họ, hơn là khi ở gần. Liệu ký ức của tôi về họ có thuộc về tôi nhiều hơn chính họ từng thuộc về tôi. Có những ngày, tôi thèm khát những điều tôi biết sẽ rỗng ruột mình ra: những bàn tay đã từng ôm sai cách nhưng vẫn khiến tôi thấy mình được muốn trong thoáng chốc. Những giọng nói từng đủ mềm để tôi quên mất sự sắc lạnh của chúng. Những tương lai lấp lánh đến mức tôi tưởng đó là cứu rỗi, ngay cả khi nó đang rã vụn trong tay.
Tôi đã khao khát những người tình biến thành người lạ không một trận cãi vã, chỉ bằng im lặng. Khao khát những cuộc đời tôi xây từ lời hứa nửa miệng và những lời thú nhận lúc nửa đêm. Khao khát những phiên bản của chính mình chỉ tồn tại trong ánh nhìn của người khác — cô gái tôi đã trở thành khi họ nhìn tôi, hy vọng tôi ôm khi họ gọi tên tôi như thể nó vẫn còn nghĩa.
Ở đâu đó dưới lồng ngực, cơn đói cũ vẫn lập lòe. Cơ thể, một khi đã học cách đau, dường như không quan tâm nó đang đau vì gì. Nó không đo đếm giá trị của thứ nó với tới. Nó chỉ với tới. Nỗi khao khát không đợi lý do, nó có trước cả sự hiểu biết. Nó cổ xưa hơn cả ký ức, trỗi dậy vì những thứ chẳng thể giữ nó và bùng cháy vì những thứ chưa bao giờ xứng đáng với nó.
Khoa học thần kinh nói hệ thống “tìm kiếm” của não không bùng sáng ở khoảnh khắc đạt được, mà ở khoảnh khắc mong chờ. Cơ thể không ăn mừng sở hữu, nó rực cháy vì khả năng. Dopamine tràn vào não không phải để thưởng cho phần thưởng, mà để tiếp nhiên liệu cho cuộc săn đuổi. Động cơ cảm xúc cổ nhất của chúng ta là thế. Nó có trước tình yêu, trước cơn giận, thậm chí trước cả nỗi sợ. Ngôn ngữ đầu tiên của sinh vật sống không phải là lời nói, mà là đói. Chính nó đã khiến sinh vật tiếp tục bước đi ngay cả khi lời hứa phần thưởng biến mất. Lý thuyết mã hoá dự đoán đi xa hơn: bộ não không được sinh ra để ghi lại thực tại chính xác như nó vốn là. Nó được tạo ra để tưởng tượng điều gì sẽ đến. Nó không thèm khát sự chắc chắn, nó khao khát sự chờ đợi. Không phải ký ức, mà là hy vọng.
Bằng cách đó, khao khát là cơn nghiện cổ xưa nhất của tâm trí.
Ký ức không lưu trữ. Nó sáng tạo lại. Mỗi lần ta chạm tới một khoảnh khắc, ta xây lại nó. Khao khát quấn lấy ký ức cho đến khi quá khứ bắt đầu lung linh, cho đến khi rìa nó mờ đi, cho đến khi điều ta nhớ uốn cong dưới sức nặng của điều ta cần nó trở thành. Khoa học thần kinh gọi đây là “tái củng cố”: ký ức không phải là bản ghi, mà là bản dựng lại, được viết lại mỗi lần ta gọi nó về. Khao khát là người biên tập không ngủ. Nó không chỉ đói điều đã từng, nó còn nhào nặn lại điều đó. Nó khâu sự ngọt ngào vào những gì từng khốc liệt, ánh sáng vào những gì từng mờ tối. Nó đặt nỗi buồn vào nơi xưa kia không có buồn, đặt sự dịu dàng vào nơi từng rỗng. Nó xâu lại quá khứ cho vừa với hình dạng cơn đói ta vẫn mang. Và khi làm vậy, nó thay đổi cả cấu trúc của tâm trí.
Nó bẻ cong thời gian. Mất mát làm chậm nó lại. Vắng mặt kéo dài nó ra. Giống như khối lượng làm cong không-thời gian, mất mát làm cong nhận thức. Tháng ngày co lại thành giờ. Một khoảnh khắc đơn lẻ nở ra thành cả mùa. Ký ức không phải là một dòng thời gian — nó là một trường hấp dẫn, uốn cong mọi thứ quanh điều đã mất, quanh điều suýt chạm tới.
Tiến hoá chọn giữ lại cơn đói, không phải câu chuyện. Tâm trí lưu thứ làm ta rung động, không phải thứ làm ta hài lòng.
Khao khát đã ám ảnh loài người từ khi chúng ta dám kể chuyện. Những bài thơ tình Ai Cập cổ khắc trên giấy cói ba ngàn năm trước cháy bỏng nỗi mong người tình vắng mặt. Orpheus quay đầu quá sớm ở địa ngục vì không chịu nổi cơn đau của “không biết”. Sappho viết về nỗi khao khát dữ dội đến mức biến thành cơn ốm thể xác. Các thi sĩ thời trung cổ tôn thờ người yêu không thể chạm tới, tìm thấy bản thân không trong sự sở hữu, mà trong sự tận hiến cho điều bất khả. Người tình thời Victoria cất lọn tóc trong sách, viết thư không bao giờ gửi, mặc nỗi vắng mặt như một lớp da thứ hai. Chúng ta luôn biến dang dở thành nghệ thuật. Chúng ta luôn xây nghi lễ quanh nỗi đau này.
Thật lạ, khi một sinh vật được tạo ra để sống sót lại khao khát những gì có thể giết mình. Xây một cơ thể tinh vi để tồn tại, rồi để nó thèm khát thứ liều lĩnh như tình yêu. Sinh học lẽ ra phải dạy ta khôn hơn. Hệ thần kinh lẽ ra phải biết rằng gắn bó là nguy hiểm, rằng mở lòng là chảy máu, rằng khao khát là phơi phần mềm nhất của ta ra với một thế giới chẳng hứa sẽ ôm lấy nó.
Cơ thể, được dựng để tồn tại, lại phản bội chính mình vì cảm giác thuộc về. Não bộ, lập trình để sợ hãi, lại tái huấn luyện theo nhịp thở của người khác. Đôi tay, sinh ra để xây chỗ trú, lại vươn vào khoảng trống giữa hai người và gọi đó là nhà, ngay cả khi bức tường cứ liên tục biến mất.
Không có phần thưởng tiến hoá nào cho việc yêu dữ dội đến thế. Không có gì bảo đảm cơn đói sẽ được đáp lại. Vậy mà ta vẫn dâng nó. Vẫn liều. Vẫn cháy vì nó.
Tình yêu là sự phản bội sinh học đẹp nhất.
Là sinh vật chọn ý nghĩa thay vì hiệu quả. Chọn mong manh thay vì an toàn. Chọn với tới thay vì rút lại.
Nhưng không phải mọi khao khát đều là bi kịch. Có những khao khát là kiến trúc dịu dàng của hy vọng. Nỗi đau không trỗi dậy từ trống rỗng, mà từ chờ đợi. Những bước chân quanh phòng trước khi họ tới, mắt dán vào cánh cửa, hơi thở nín lại. Có khao khát dẫn tới điều thật, điều bền lâu. Không phải mọi mong muốn đều làm rỗng bạn, có những mong muốn làm bạn rộng ra, dạy trái tim lớn hơn nỗi sợ.
Và rồi, ngay cả khi bàn tay chạm nhau, khi chờ đợi kết thúc — khoảnh khắc ấy gần như luôn nhẹ hơn, ít điện ảnh hơn cơn đói dẫn tới nó. Khao khát không tìm kiếm kết thúc, nó tìm quỹ đạo. Nó không muốn được giải đáp. Nó muốn tiếp tục kéo. Nó muốn tồn tại trong trọng lực giữa cái đã mất và cái suýt chạm. Vắng mặt làm sắc nét sự tồn tại. Khao khát đốt sáng thế giới. Ta được soi rọi bởi điều ta thiếu.
Có những đêm, nỗi nhớ đến trước cả ký ức. Những sáng, tôi trở mình, chờ cảm giác quen thuộc cuộn lại trong ngực. Vắng mặt trở thành một nghi lễ riêng. Thời gian gấp gáp quanh nó. Và khi nó không đến, khi khao khát im ắng, tôi không chắc mình nên nhẹ nhõm hay bị bỏ rơi. Không có nó, thế giới dễ thở hơn — nhưng cũng mỏng hơn, nhẹ hơn, và bằng cách nào đó… bớt là của tôi.
Không phải điều thiếu khiến tôi thành tôi, mà là việc tôi có thể cảm nhận nó. Khao khát không hoàn thiện. Không kết thúc. Không đóng lại. Nó là kiến trúc của “suýt nữa”, được mang đi tiếp.
Không có khai sáng chờ ở cuối. Không có huân chương cho việc chịu đựng nó đẹp đẽ hơn. Khao khát không thanh lọc bạn, không làm bạn thiêng liêng, không biến bạn thành người khôn ngoan. Nó chỉ ở đó. Khâu dưới xương sườn, cuộn sau hàm răng. Một cơn đói cũ mà cơ thể chưa từng học cách chôn.
Đôi khi nó trông cao quý. Đôi khi nó trông đáng thương. Đôi khi nó là thứ duy nhất khiến ngày tháng còn nghĩa.
Nỗi đau này không muốn được giải quyết. Nó muốn được mang theo. Không xoá đi, mà chịu đựng. Nó muốn ngồi cạnh bạn khi đèn tắt. Ám những khoảng trống nơi ký ức mờ dần. Nhắc bạn rằng ngay cả im lặng cũng có nhịp tim, nếu bạn chịu lắng nghe.
Nó sống trong những khoảng tôi không biết cách khép lại. Trong những bài hát tôi không dám nghe hết. Trong những bàn tay tôi lẽ ra không nên nắm mà vẫn nắm. Trong những lời hứa nói khẽ và tan đi khẽ hơn. Trong những căn phòng tôi vẫn bước qua trong mơ. Nó sống trong những điều suýt chạm.
Trong những câu suýt nói, bàn tay suýt chạm, người suýt cứu được.
Nó là bằng chứng rằng tôi đã dám muốn nhiều hơn. Rằng tôi đã yêu đủ để đau vì nó.
Và điều đó,
điều đó là phần người nhất trong tôi.
Phần vẫn kiên nhẫn khâu nghĩa vào nỗi đau, lâu sau khi lẽ ra phải bỏ cuộc.
Phần dễ bầm, chậm lành, và hy vọng một cách bướng bỉnh.

💬 Nhận xét bài viết